Kết quả tìm kiếm - Chopin, Frédéric, 1810-1849.
Frédéric Chopin

Frédéric François Chopin, ; .|group=gc}} (tên khai sinh là Fryderyk Franciszek Szopen;.|group=gc}}, cách viết sau này đã được nhiều người Ba Lan sử dụng kể từ thời của ông, kể cả những nhà thơ cùng thời với ông như Juliusz Słowacki và Cyprian Norwid.|group=gc}} 1 tháng 3 năm 181017 tháng 10 năm 1849) là một nhà soạn nhạc và nghệ sĩ dương cầm người Ba Lan sống trong thời kỳ âm nhạc Lãng mạn, chủ yếu sáng tác cho độc tấu dương cầm. Ông là một trong những nhà soạn nhạc tiên phong của thời kỳ này với "chất thơ thiên tài dựa trên kỹ thuật không một ai đương thời có thể sánh bằng".
Chopin sinh ra tại Żelazowa Wola, Công quốc Warszawa và lớn lên chủ yếu ở thành phố Warszawa – sau này trở thành một phần của Vương quốc Lập hiến Ba Lan vào năm 1815. Ông là một thần đồng, được đào tạo âm nhạc và viết một số tác phẩm tại Warszawa trước khi rời Ba Lan vào năm 20 tuổi, chỉ vài tuần trước khi cuộc nổi dậy tháng 11 diễn ra. Chuyển tới Paris vào năm 21 tuổi, ông chỉ có 30 buổi công diễn chủ yếu trong không khí thân mật của các cuộc họp mặt nghệ sĩ. Ông kiếm sống bằng việc bán các sáng tác và dạy học vì đây là công việc mà ông được nhiều người yêu cầu. Ông kết thân với nhạc sĩ người Hungary Franz Liszt và là thần tượng của nhiều nghệ sĩ đương thời như Robert Schumann. Sau khi đính hôn bất thành với Maria Wodzińska từ năm 1836 và 1837, ông duy trì mối quan hệ nhiều bất ổn với nữ văn hào Pháp Amantine Dupin (được biết đến với bút danh George Sand). Chuyến đi thăm ngắn ngủi và đau khổ cùng Sand tại Mallorca, Tây Ban Nha trong giai đoạn 1838–1839 là một trong những giai đoạn sung sức nhất trong sự nghiệp sáng tác của Chopin. Trong những năm cuối đời, Jane Stirling trở thành người bảo trợ của ông. Suốt hầu hết cuộc đời, sức khỏe của Chopin không được ổn định. Tháng 10 năm 1849, ông qua đời ở Paris, hưởng thọ 39 tuổi.
Tất cả các sáng tác của Chopin đều sử dụng dương cầm. Đa số tác phẩm của ông dành cho dương cầm độc tấu, nhưng ông cũng đã viết hai bản concerto cho dương cầm, một vài tác phẩm nhạc thính phòng và 19 bài hát có lời bằng tiếng Ba Lan. Các sáng tác dương cầm của ông thường mở rộng giới hạn của nhạc cụ và đòi hỏi kỹ thuật cao, còn những màn trình diễn của ông đã được ghi nhận về sắc thái và độ nhạy cảm. Tác phẩm dương cầm chính của ông gồm các bản mazurka, waltz, nocturne, polonaise, ballade không lời (mà Chopin đã tạo ra thành một thể loại), étude, impromptu, scherzo, prelude, và sonata. Một số tác phẩm được xuất bản chỉ sau khi ông qua đời. Những nguồn ảnh hưởng đến phong cách sáng tác của ông là dân ca Ba lan, nhạc cổ điển truyền thống của J. S. Bach, Mozart và Schubert, cùng bầu không khí của các salon ở Paris mà ông thường xuyên ghé thăm. Những đổi mới của ông trong phong cách, hòa âm và hình thức âm nhạc, cùng với sự kết hợp âm nhạc với chủ nghĩa dân tộc đã có ảnh hưởng đến trong và sau giai đoạn hậu Lãng mạn.
Âm nhạc của Chopin, việc trở thành một trong những siêu sao âm nhạc đầu tiên, mối liên hệ gián tiếp với các cuộc biến động chính trị, kèm theo đời sống tình cảm tai tiếng và cái chết sớm đã khiến ông trở thành biểu tượng hàng đầu của thời đại lãng mạn. Tác phẩm của ông vẫn còn phổ biến cho đến ngày nay. Ông là chủ đề của nhiều bộ phim và tiểu sử với độ trung thực lịch sử khác nhau. Những di tích của ông bao gồm viện Fryderyk Chopinđược Nghị viện Ba Lan thành lập nhằm nghiên cứu và quảng bá cuộc đời và tác phẩm của ông. Nơi đây cũng tổ chức Cuộc thi piano quốc tế Chopin, một cuộc thi danh giá dành riêng cho các tác phẩm của ông. Được cung cấp bởi Wikipedia